Bài viết gốc: China’s Economy Cannot Export Its Problems Away
Ngày 31 tháng 5 năm 2024
ALICIA GARCÍA-HERRERO và ALESIO TERZI
Trung Quốc tiếp tục chỉ điều trị các triệu chứng chứ không phải nguyên nhân cơ bản của tình trạng bất ổn kinh tế. Cần phải làm bất cứ điều gì có thể để tăng tiêu dùng trong nước và giảm tiết kiệm quá mức; thay vào đó họ dựa vào các thị trường xuất khẩu trong một thế giới đang nhanh chóng từ bỏ thương mại tự do.
TAIPEI/CAMBRIDGE – Trong vòng chưa đầy một tháng nữa, các nhà lãnh đạo từ doanh nghiệp, chính phủ, xã hội dân sự và các tổ chức quốc tế sẽ tới Trung Quốc để tham dự cuộc họp thường niên do Diễn đàn Kinh tế Thế giới tổ chức. “Davos mùa hè” năm nay dự kiến sẽ tập trung vào các lĩnh vực tăng trưởng tiếp theo và nền kinh tế Trung Quốc sẽ trở thành tâm điểm chú ý. Ai cũng biết rằng nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đang phải vật lộn để đạt được mức tăng trưởng mong muốn của chính phủ khi phải đối mặt với dòng vốn lớn chảy ra ngoài, bong bóng bất động sản, khủng hoảng nợ mới chớm và các vấn đề khác. Tuy nhiên, việc giải mã chính xác tình trạng kinh tế của đất nước là rất khó khăn. Với việc khả năng tiếp cận dữ liệu chính thức giảm nhanh, một số nhà phân tích đặt câu hỏi về độ tin cậy của số liệu thống kê GDP được báo cáo công khai.
Trong số một số chủ đề liên quan đến Trung Quốc dự kiến sẽ được thảo luận tại Đại Liên, thương mại có thể sẽ là chủ đề nổi bật do nó có tác động trực tiếp đến phần còn lại của thế giới. Thành tích xuất khẩu của Trung Quốc rất đặc biệt trong suốt năm 2020 và 2021, khi nước này dư thừa năng lực sản xuất cho một thế giới đang bị phong tỏa. Và vào năm 2023, thặng dư thương mại được báo cáo của nước này là 823 tỷ USD, cao hơn gấp đôi so với thời kỳ trước COVID. (Mặc dù xuất khẩu của nước này thực sự đã giảm đôi chút kể từ năm 2022, nhưng đó là mức cơ bản rất cao).
Trong khi đó, nhập khẩu vẫn giảm do Trung Quốc đã thay thế hàng hóa nước ngoài cho sản xuất trong nước, đặc biệt là sản xuất. Về mặt trực quan, tất cả điều này nghe giống như câu chuyện về một nền kinh tế có nền tảng rất vững chắc, khiến cho hoạt động kinh tế vĩ mô trì trệ gần đây của nó trông giống như một cuộc suy thoái theo chu kỳ. Nhưng thực tế lại hoàn toàn khác.
TRIỆU CHỨNG BỆNH
Xuất khẩu thường được coi là có lợi cho sự tăng trưởng của một nền kinh tế mới nổi vì chúng đại diện cho nhu cầu bên ngoài, từ đó hỗ trợ sự hội tụ kinh tế (tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người nhanh hơn so với các nền kinh tế có thu nhập cao). Điều này rõ ràng đúng với Trung Quốc trong những thập kỷ gần đây, và người ta cũng thấy những mô hình tương tự ở các nền kinh tế châu Á khác. Trên thực tế, tất cả các giai đoạn “tăng trưởng thần kỳ” ở các thị trường mới nổi kể từ những năm 1950 đều gắn liền với việc mở rộng xuất khẩu nhanh chóng.
Nhưng thặng dư thương mại lớn của Trung Quốc không phải là dấu hiệu của sức mạnh mới và năng lực công nghiệp được nâng cấp. Ngược lại, thị phần khổng lồ của Trung Quốc trong xuất khẩu toàn cầu (bao gồm 21% hàng xuất khẩu sản xuất) xuất phát trực tiếp từ việc chính phủ không có khả năng tăng tiêu dùng nội địa bằng cách giảm tỷ lệ tiết kiệm nội địa, vốn vẫn ở mức quá cao. Nếu không được giải quyết, vấn đề này sẽ làm tê liệt quá trình vươn lên vị thế quốc gia có thu nhập cao của Trung Quốc.
Trong khoảng hai thập kỷ qua, Trung Quốc dựa vào lĩnh vực bất động sản để thúc đẩy đầu tư tài sản cố định và kéo theo nhu cầu trong nước. Sự bùng nổ bất động sản Trung Quốc gần đây đã làm giảm mức thâm hụt tài khoản vãng lai rất lớn mà Trung Quốc duy trì trong nhiều năm, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Tuy nhiên, ngay cả khi đó, mức tiêu dùng trong nước vẫn ở mức thấp, dao động quanh mức 35% GDP, gần bằng một nửa mức trung bình ở các nước phát triển. Tệ hơn nữa, sự bùng nổ bất động sản sẽ sớm trở thành bong bóng do các nhà phát triển phụ thuộc nặng nề vào nợ và tình trạng xây dựng quá mức tràn lan.
Sự kết hợp giữa lợi tức đầu tư cận biên ngày càng thấp và việc siết chặt quản lý đối với các nhà phát triển bất động sản hiện đã bộc lộ sự mất cân bằng kinh tế vĩ mô lớn của Trung Quốc. Sự xuất hiện trở lại của thặng dư tài khoản vãng lai lớn là một dấu hiệu rõ ràng về điều này, và tình hình chỉ trở nên tồi tệ hơn khi chuyển từ phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư bất động sản sang phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư sản xuất. Cần nhấn mạnh rằng sự chuyển dịch cơ cấu này chỉ là một phần kết quả của sự thúc đẩy chính sách công nghiệp lớn. Trợ cấp chỉ là phần nổi của tảng băng trôi, chiếm khoảng 2% GDP. Nguồn gốc của cơn sốt sản xuất được tìm thấy là do thiếu các lựa chọn thay thế tốt hơn, do lợi nhuận đầu tư vào cả bất động sản và cơ sở hạ tầng thấp.
Khoản đầu tư mới này đã tạo ra nhiều năng lực hơn mức mà nền kinh tế Trung Quốc có thể hấp thụ. Tiêu dùng trong nước vẫn ở mức thấp và tiết kiệm tùy ý vẫn ở mức cao do người tiêu dùng Trung Quốc không chắc chắn về triển vọng kinh tế. Tâm lý giảm giá có ý nghĩa trực quan. Người tiêu dùng Trung Quốc đã phải chịu đựng các chính sách hà khắc “không có COVID” và chứng kiến các cơ quan quản lý tùy tiện đàn áp các ngành cụ thể như trò chơi và giáo dục tư nhân. Họ cũng sẽ cảm nhận được tác động của áp lực giảm phát ngày càng tăng, đặc biệt là trong lĩnh vực bất động sản. Nếu phần lớn tài sản của gia đình bạn được giữ trong một căn hộ chung cư, thì giá trị căn hộ giảm trên diện rộng sẽ khiến bạn cảm thấy nghèo hơn và ít có xu hướng chi tiêu hơn.
SỤP ĐỔ VÀ LOẠI BỎ TOÀN CẦU HÓA
Hậu quả có thể dự đoán được của việc đầu tư lớn vào sản xuất và nhu cầu trong nước yếu là áp lực giảm giá và dư thừa năng lực. Trong những điều kiện này, nhu cầu bên ngoài sẽ bù đắp cho sự thiếu hụt. Nhìn chung, Trung Quốc không chỉ xuất khẩu nhiều hàng hóa sản xuất hơn; nó cũng vận chuyển chúng đến mọi nơi có thể.
Một trong những điểm đến chính là Liên minh châu Âu, nơi vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc, mặc dù nền kinh tế của nước này nhỏ hơn so với Hoa Kỳ. Xu hướng này đặc biệt nổi bật đối với những hàng hóa cụ thể mà các công ty châu Âu trước đây có lợi thế cạnh tranh. Ví dụ, thị phần bán xe điện của nhà sản xuất ô tô Trung Quốc BYD ở châu Âu đã tăng từ 0,4% vào năm 2019 lên 8% vào năm 2023; và theo một số ước tính, nhập khẩu từ Trung Quốc có thể chiếm 25% thị trường xe điện châu Âu vào năm 2024. Đối với pin và tấm pin mặt trời, nhập khẩu từ Trung Quốc lần lượt chiếm 80% và 90% thị trường châu Âu.
Trên toàn cầu, người ta thấy có nhiều quan điểm khác nhau về việc liệu các nền kinh tế khác đã sẵn sàng hoặc thậm chí có thể hấp thụ tình trạng dư thừa công suất của Trung Quốc hay không. Ở một phía, Mỹ ngày càng phản đối việc nhập khẩu hàng hóa sản xuất - đặc biệt là các sản phẩm chiến lược, chẳng hạn như công nghệ xanh - từ Trung Quốc. Chính quyền Biden không chỉ cấm các sản phẩm của Trung Quốc tham gia chương trình trợ cấp xanh rộng lớn của mình; họ cũng đang xem xét các lệnh cấm hoàn toàn vì lý do an ninh quốc gia, bên cạnh việc tăng thuế đối với xe điện, pin, chất bán dẫn, pin mặt trời và các hàng hóa khác.
Về phần mình, EU đã kêu gọi thực hiện chiến lược “giảm rủi ro” để giảm sự phụ thuộc vào hàng nhập khẩu từ Trung Quốc và đã mở một số cuộc điều tra về việc sử dụng trợ cấp của Trung Quốc, bao gồm cả xe điện, công viên gió, công ty năng lượng mặt trời, công ty đường sắt, thiết bị y tế và thép tráng thiếc. Nhưng tính đến thời điểm hiện tại, các nền kinh tế châu Âu vẫn mở cửa kinh doanh và trong chuyến công du ngoại giao gần đây tới Pháp, Serbia và Hungary, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tìm cách đảm bảo rằng điều này vẫn như vậy.
Hầu hết các nền kinh tế mới nổi vẫn chủ yếu mở cửa cho hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Nhưng tâm trạng có thể đang bắt đầu thay đổi ở những quốc gia này, chẳng hạn như Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ, những quốc gia cũng có tham vọng trở thành cường quốc công nghiệp và những nước có vai trò địa chính trị quan trọng.
Trong khi một số chính phủ phàn nàn rằng các hoạt động thương mại của Trung Quốc là không công bằng theo các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới, thì việc chứng minh cáo buộc là rất khó khăn vì chính sách công nghiệp của Trung Quốc không chỉ giới hạn ở việc trợ cấp hoàn toàn. Nếu có thì trợ cấp chỉ là phần nổi của tảng băng trôi. Về phía cung, các khoản trợ cấp rất nhỏ và có xu hướng được bổ sung bằng các quỹ do nhà nước chỉ đạo bơm vốn vào các công ty và lĩnh vực được cho là có liên quan để nâng cấp năng lực công nghiệp của Trung Quốc theo kế hoạch quốc gia “Sản xuất tại Trung Quốc 2025”. Hơn nữa, các hình thức hỗ trợ bổ sung - chẳng hạn như thỏa thuận thuế ưu đãi và điều kiện tài chính - càng làm mờ đi bức tranh, khiến việc xác định chính xác mức độ trợ cấp đáng kể như thế nào đối với khả năng cạnh tranh của Trung Quốc.
Phạm vi và sự mờ ám của các chính sách công nghiệp của Trung Quốc đã tạo ra những phản ứng bảo hộ đột ngột từ các chính phủ khác - bao gồm cả những chính phủ như EU, vốn có truyền thống ủng hộ hệ thống thương mại đa phương dựa trên luật lệ. Những người ủng hộ các biện pháp như vậy không chỉ chỉ ra các vấn đề về phía cung mà còn cả nhu cầu. Nhập khẩu hàng hóa sản xuất của Trung Quốc từ phần còn lại của thế giới - và đặc biệt là từ EU - đang giảm do các rào cản thương mại phòng thủ, các quy định về hàm lượng quốc gia và các chính sách kiểm soát tiếp cận thị trường dưới danh nghĩa an ninh quốc gia.
VẤN ĐỀ SẢN XUẤT TẠI TRUNG QUỐC
Thông qua “Made in China 2025”, sáng kiến “Lực lượng công nghiệp mới” gần đây và các chương trình khác, giới lãnh đạo Trung Quốc đã nỗ lực hết sức để nâng cấp năng lực công nghiệp của Trung Quốc, leo lên chuỗi giá trị toàn cầu và đạt được khả năng tự chủ kinh tế cao hơn. Nhưng kết quả chung của chiến lược này không tích cực như người ta mong đợi nếu chỉ nhìn vào quy mô thặng dư tài khoản vãng lai.
Trong môi trường căng thẳng địa chính trị ngày càng gia tăng, việc phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu là một chiến lược đầy rủi ro. Với những xung đột và cạnh tranh giữa các cường quốc ngày càng lấn át những cân nhắc kinh tế hạn hẹp, Trung Quốc đang trao cho các nước khác đòn bẩy đáng kể đối với nền kinh tế của mình. Hơn nữa, trong khi Trung Quốc là một trong những nước hưởng lợi lớn từ hệ thống thương mại quốc tế dựa trên luật lệ và toàn cầu hóa nói chung, trật tự thế giới dường như đang trải qua một sự thay đổi. Thương mại dựa trên quy tắc không còn là con bò thiêng liêng nữa và sự phụ thuộc về kinh tế và thương mại dễ dàng được vũ khí hóa hơn. Tất nhiên, điều trớ trêu là Trung Quốc đã tạo ra sự phụ thuộc chiến lược trong nhiều năm và dường như không lường trước được rằng phương Tây cuối cùng cũng có thể làm điều tương tự.
Khi sự cạnh tranh của Trung Quốc với phương Tây ngày càng gia tăng, nước này đã tìm cách tăng xuất khẩu sang Nam bán cầu, vì những nền kinh tế này được coi là nơi an toàn hơn để tích lũy thặng dư thương mại lớn. Tuy nhiên, tâm trạng ở những nước này cũng đang thay đổi. Ví dụ, Brazil và Ấn Độ, rõ ràng lo lắng về việc tràn ngập hàng hóa do Trung Quốc sản xuất, đang xem xét các biện pháp bảo vệ thương mại mới của riêng mình.
Giờ đây, khi chính sách công nghiệp đã trở lại được ưa chuộng, các quốc gia trên khắp miền Nam bán cầu đang háo hức học theo vở kịch của Trung Quốc. Tại sao họ không nên bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ của mình và cố gắng mô phỏng mô hình tăng trưởng dựa vào sản xuất mà Trung Quốc đã triển khai rất thành công trong bốn thập kỷ qua? Dù Trung Quốc muốn khẳng định mình là nhà lãnh đạo của Phương Nam toàn cầu - hay ít nhất là nhà lãnh đạo của BRICS mở rộng mới (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi, cộng với Ai Cập, Ethiopia, Iran, Ả Rập Saudi và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất) – họ sẽ phải bước đi cẩn thận. Những căng thẳng chính trị mới về thương mại và các vấn đề khác đều được đảm bảo.
ĐI SAI ĐƯỜNG
Nếu các nhà lãnh đạo Trung Quốc nghĩ rằng việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sản xuất sẽ giảm thiểu sự giảm tốc về cơ cấu của nền kinh tế thì họ đang phải nhận thức một cách thô bạo. Chiến lược đó dựa trên một thế giới không còn tồn tại - cụ thể là một thế giới hoàn toàn cam kết thực hiện thương mại tự do không bị hạn chế. Hoa Kỳ đã rời khỏi con tàu thương mại tự do trong nhiệm kỳ tổng thống của Donald Trump, và giờ đây nhiều quốc gia ở Nam bán cầu cũng sẵn sàng làm điều tương tự.
Chính quyền Trung Quốc tiếp tục chỉ điều trị các triệu chứng chứ không phải nguyên nhân cơ bản của tình trạng bất ổn kinh tế. Lẽ ra họ phải làm bất cứ điều gì có thể để tăng tiêu dùng trong nước, nhưng thay vào đó họ lại dựa vào nhu cầu nước ngoài. Đó là một chiến lược đặc biệt có vấn đề đối với một chế độ phi dân chủ vốn từ lâu đã có được tính hợp pháp từ việc đạt được các mục tiêu tăng trưởng GDP. Bằng cách dựng lên các rào cản thương mại, các chính phủ nước ngoài có thể làm suy yếu tính hợp pháp chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc, và viễn cảnh này có thể khiến họ đặc biệt có xu hướng làm như vậy.
Câu hỏi đặt ra là liệu Trung Quốc có thể thay đổi hướng đi trước khi nền kinh tế trì trệ hay không. Nhà nước phúc lợi nhỏ bé là nguyên nhân thường xuyên của tiết kiệm phòng ngừa, và với nợ công đã lên tới 100% GDP, chính phủ không còn dư địa tài chính như trước đây nữa. Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc sẽ cần nghĩ ra những cách sáng tạo hơn để hỗ trợ tiêu dùng và giảm sự phụ thuộc của nền kinh tế vào thị trường xuất khẩu. Hiện tại, ít nhất họ dường như đã sẵn sàng làm nhiều hơn nữa để hỗ trợ nhu cầu trong nước, cả thông qua các chính sách tài chính và tiền tệ, bao gồm cả việc phát hành thêm trái phiếu chính quyền địa phương.
Chắc chắn rằng, nếu phương Tây biến thương mại với Trung Quốc thành vũ khí, Trung Quốc đã xây dựng được nhiều sự phụ thuộc chiến lược để có thể trả đũa. Nhưng phương Tây có nhiều công cụ riêng – nhất là thị trường khổng lồ và sức mua. Con đường phía trước rất hẹp và việc giải quyết các vấn đề cơ cấu của nền kinh tế Trung Quốc sẽ đòi hỏi nhiều chính sách và cách tiếp cận khác nhau. Nhưng việc thúc đẩy xuất khẩu hơn nữa không phải là một trong số đó.
- Alicia García-Herrero, thành viên cấp cao tại Bruegel, là Chuyên gia kinh tế trưởng khu vực Châu Á Thái Bình Dương tại ngân hàng đầu tư Natixis của Pháp và là thành viên hội đồng quản trị độc lập của tập đoàn bảo hiểm AGEAS.
- Alessio Terzi, giảng viên tại Đại học Cambridge và Sciences Po, là nhà kinh tế học tại Ủy ban Châu Âu và là tác giả của cuốn sách Tăng trưởng vì điều tốt đẹp: Định hình lại chủ nghĩa tư bản để cứu nhân loại khỏi thảm họa khí hậu (Nhà xuất bản Đại học Harvard, 2022).
0 Nhận xét